Tất cả các bài

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2016

TUẦN TRIỆT (tt)

1.    BỘ TUẦN TRIỆT ĐI VỚI CHÍNH TINH :

*      TUẦN TRIỆT đi với bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM :

-       TUẦN :
+        TỬ VI gặp TUẦN bất lợi vì gặp sự sai khiến, tuân theo.
+        THIÊN PHỦ gặp TUẦN chủ phủ dụ, hiệu triệu…
+     THIÊN TƯỚNG gặp TUẦN là tốt chủ sự trọn vẹn, trọn tình… trọng nghĩa là cách này.
+        VŨ KHÚC và LIÊM TRINH gặp TUẦN đều tốt. đối với LIÊM là hưởng hai chữ trung trinh. Với VŨ KHÚC là tài năng đáng tôn trọng, là trung gian hòa giải.
-       TRIỆT :
+    TRIỆT đi với LIÊM hay VŨ đều tốt. Tài năng như VŨ KHÚC, đạo đức như LIÊM TRINH cần TRIỆT lộ ra mới biết, được mọi người nể phục. Nhưng chớ gặp thêm KỴ.
+        THIÊN TƯỚNG gặp TRIỆT là cách vong tình, quên ơn bội nghĩa. Từ đó dễ bị lộ diện, vạch mặt là đây.
+        TỬ VI và THIÊN PHỦ gặp TRIỆT là bất lợi. Rất kị TRIỆT.

*      TUẦN TRIỆT đi với bộ SÁT PHÁ THAM :

-       PHÁ QUÂN, THAM LANG gặp TUẦN hay TRIỆT là quá tốt.
+     THAM LANG là lòng ham muốn, gắn bó. Lòng ham muốn cần biết đúng sai, muốn đúng nơi đúng chổ. Và không phải với ai cũng sẵn sàng gắn bó.
+       PHÁ QUÂN là khám phá. Khám phá cần có sự tập trung của TUẦN, và sự biết đúng sai của TUẦN TRIỆT để dễ thành công.
-       Nhưng đối với THẤT SÁT là ngôi sao thiên về mất và được, bản chất cũng là vong tinh. Do đó khi đi với TUẦN hay TRIỆT cái vong, cái mất dễ đạt đến cao trào.

*      TUẦN TRIỆT đi với bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG :

-       Với CƠ hiền, LƯƠNG lành, ĐỒNG phúc gặp TRIỆT lộ ra mọi người càng kính mến. Với TUẦN  chữ trung càng thêm đẹp. Nhưng THIÊN LƯƠNG gặp TRIỆT có điềm bất lợi về lương bổng.
-       Với THÁI ÂM gặp TUẦN TRIỆT giống như THÁI DƯƠNG.

*      TUẦN TRIỆT đi với bộ CỰ NHẬT :

-       CỰ MÔN chủ phản đối chống cự, tùy tình hình hung cát tinh tụ tập :
+        Đi với TUẦN là phản đối đúng, phản đối sự việc có tính quan trọng.
+        Đi với TRIỆT la phản đối sai, hoặc trừ bỏ sự phản đối, không kháng cự.
-       Với NHẬT NGUYỆT là mặt trăng, mặt trời, tùy tình huống sáng tối:
+        Khi sáng rất đại kị có TUẦN TRIỆT
+        Khi tối cần TUẦN TRIỆT để sáng ra.

Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2016

TUẦN TRIỆT

TUẦN TRIỆT

1.    ĐIỂM DỊ BIỆT CỦA TUẦN VÀ TRIỆT

*      TUẦN chủ bên trong, TRIỆT chủ bên ngoài :
-       Trong và ngoài là đặc tính cơ bản của TUẦN TRIỆT, như kẻ trong cuộc và kẻ ngoài cuộc…
+        Kẻ trong cuộc, kẻ ngoài cuộc có tốt có xấu. Cuộc xấu ta ở trong đó là không may. Cuộc tốt ta ở ngoài cuộc cũng vô phước vậy.
Ø  Từ vị trí nhìn thấy sao TUẦN (ngộ TUẦN hay kiến TUẦN) là kẻ trong cuộc, nếu tốt đẹp là cuộc vui, nếu nhìn ra thấy toàn cuộc buồn phiền thì chạy đâu cho thoát. Nếu cát hung tương bán là vui buồn lẫn lộn.
Ø  Từ vị trí thấy TRIỆT (ngộ TRIỆT hay kiến TRIỆT) là kẻ ngoài cuộc. Nếu có hung sát tinh, ta ở ngoài cuộc ấy. (vì bản chất của TRIỆT là trừ hung họa). Nếu có cát hỉ tinh, ta là kẻ trong cuộc ấy vì tính chất của TRIỆT là lộ ra những cái tốt đẹp, tức nó gạt những cái xấu xa qua một bên và đứng về phía bên tốt. Nếu ngộ TRIỆT nó vừa trừ hung họa bên trong và chống đỡ với tai họa bên ngoài.
Ø  Chú ý với điều kiện không có HÓA KỴ
+        TUẦN là sao hấp thụ vào, hít vào, nhập vào… cái gì cũng tiếp nhận hết. Cho nên từ vị trí thấy TUẦN quá thiên về TUẦN
+        TRIỆT là sao loại trừ, loại trừ những cái xấu và làm lộ ra những cái tốt. Từ vị trí thấy TRIỆT quá thiên về TRIỆT.  Nếu có cả TUẦN lẫn TRIỆT thì dễ phân biệt đâu đúng đâu sai, ta có cả phòng lẫn trừ.
-       TUẦN là con đường đi loanh quanh mà về lại chốn cũ, những đồ vật, vật dụng có dạng vòng tròn khép kín; TRIỆT là con đường một chiều, ngõ hẻm không thông, là vật dụng đồ dùng có hình dạng thẳng, ngắn giới hạn bởi hai đầu.
+        Vòng tròn TUẦN LỘC TỒN : 
  •     Đa phần mệnh, đại hạn đóng tại đây, có của để dành. 
  •     Với điều kiện không có KHÔNG KIẾP, PHÁ QUÂN, KỴ HÌNH xung chiếu hay tọa thủ. 
  •     CỰ MÔN tốt xấu lẫn lộn.
*      TUẦN chủ trọn vẹn, TRIỆT chủ nữa chừng :

-       Trọn ven theo đuổi mục đính, lý tưởng, cuộc thề ấy… tức TUẦN chủ trung thành, tận trung, chung thủy…Nhưng vấn đề chưa chắc tận trung, trọn vẹn… đã hay khi trung thành tận trung phục vụ loài ác quỷ…
+        TUẦN đi với THIÊN KHÔNG là không trọn vẹn. TUẦN KHÔNG
-       TRIỆT là nữa chừng bỏ cuộc, lời hứa chưa tròn…Nhưng chưa chắc đã dỡ khi từ bỏ thói quen xấu, ham muốn tội lỗi… Nhưng bàn đến thân phận, xác thân thì TRIỆT không hay.
+        TRIỆT đi với THIÊN KHÔNG là không bỏ nữa chừng. TRIỆT KHÔNG
-       TUẦN hay TRIỆT cần nằm đúng vị trí của nó, cái gì triệt thì nên TRIỆT.
+        TRIỆT tại cung an thân nó mang ý nghĩa “nữa chừng xuân thoắt gảy cành thiên hương”.
+        Các chính tinh kị TRIỆT là : TỬ VI, THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG.
+        Các chính tinh cần TRIỆT là : PHÁ QUÂN, THAM LANG.

*      TUẦN chủ vào, tiếp nhận vào, thu vào; TRIỆT chủ ra, chi ra, đuổi ra :

-       Vào ra, nhận vào chi ra, thu vào đuổi ra… là các yếu tố của TUẦN và TRIỆT và hai yếu tố này cần kết hợp với nhau mới tốt. Nếu có một yếu tố thôi là không hoàn chỉnh.
-       Các cung có cả TUẦN và TRIỆT nếu hay có nghĩa là biết cái gì nên vào, cái gì nên ra…Nếu dỡ là chổ tốt không vào, vào ngay chổ xấu. Cung có bộ TUẦN TRIỆT là gạn đục khơi trong.
-       Vì TUẦN chủ nhận vào, thu vào nên nó chính là dấu cộng và TRIỆT chủ chi ra nên nó cũng là dấu trừ. Từ đó, nếu TUẦN hay TRIỆT đóng tại các cung chỉ người cho thấy có sự cộng trừ về số lượng.
+        TRIỆT đóng tại cung HUYNH ĐỆ dễ mất anh em
+        TRIỆT đóng tại cung PHỤ MẪU dễ mất cha mẹ, nhẹ nhất là không ở gần cha mẹ.
+        TRIỆT tại HÔN PHỐI là tan vỡ mối duyên đầu.
+        TRIỆT tại QUAN LỘC ít nhất bỏ nghề, bỏ địa vị một lần.
-       TUẦN TRIỆT chủ vào và ra nên cũng là chủ hít vào thở ra. TUẦN TRIỆT đi với TỬ VI (ngôi sao chủ sự hoạt động của cơ thể, coi sự sống chết) gặp thêm THIÊN KHÔNG, thành cách TỬ VI ngộ TAM KHÔNG là không hít vào không thở ra, không biết chi hết. không chết cũng dưới dạng thực vật, không vậy thì cũng chết địa vị, chết công danh.

*      TUẦN chủ phòng, TRIỆT chủ trừ, trị :

-       TUẦN chủ phòng như phòng cháy, chữa cháy… TRIỆT chủ trị như trị bệnh, chữa cháy…
-       Bộ VŨ KHÚC TUẦN được hưởng hai chữ phòng tránh. Phòng cháy là TUẦN HỎA, chữa cháy là TRIỆT HỎA.
-       TUẦN chủ phòng nhưng gặp THIÊN KHÔNG là lắc đầu bảo không.
-       Bộ TUẦN HÌNH được xem là trọng tội, giống như vòng ngắm của cây súng. TUẦN KÌNH HÌNH HỎA lâm nguy.

*      TUẦN chủ trọng, xem trọng; TRIỆT chủ khinh, coi nhẹ :

-       Xem làm trọng là TUẦN, như xem việc ấy làm trọng, là nơi quan tâm đến…, xem làm nhẹ là TRIỆT như xem việc ấy không quan trọng, coi thường, là nơi không quan tâm đến…
-       Trọng và khinh như trọng nam khinh nữ; trong nghĩa khinh tài…
-       Từ đó vận dụng để đoán trọng trọng bạn hơn cha…hay vong ân bội nghĩa, uy vũ bất khuất.
+        TUẦN tại cung TỬ TỨC là quan tâm nhiều đến con cái…TUẦN tại cung PHỐI là xem trọng, quan tâm nhiều đến người phối ngẫu.
+        TUẦN tại THÂN, MỆNH được đánh giá là trung thực.
-       Cao hơn nữa của việc xem trọng, sự quan tâm là cụm từ “nặng lòng với” như nặng lòng với nước…
-       TUẦN là ngôi sao chủ quan trọng. Như nhân vật quan trọng, xấu là sự việc nghiêm trọng, tội trọng. Đi với sao tốt rất tốt, đi với sao xấu rất xấu.
+        TUẦN chủ xem trọng, TRIỆT chủ coi khinh nên còn là là Phế và Lập
+        Phế trưởng lập thứ là TRIỆT KÌNH, TUẦN ĐÀ
+        Đi với ĐÀ có KỴ như TRIỆT ĐÀ KỴ là triệt hạ, hạ bệ.
-       Khi TUẦN thấy chung quang mình toàn cát, hỉ tinh là chủ được tôn trọng, tôn kính, nhân vật quan trọng…Hay nhất là TUẦN KÌNH được tôn trọng và nâng lên cao.
-       Khi TRIỆT thấy chung quanh mình toàn cát, hỉ tinh tất được sự ngoại lệ miễn trừ, bất khả xâm phạm. Nhưng chớ gặp KỴ HÌNH dễ nguy hiểm đến bản thân.
-       Bộ TUẦN TRIỆT chủ xem trọng, coi khinh kết hợp với bộ KÌNH ĐÀ đưa lên hạ xuống làm cho cuộc đời cực kỳ sinh động. Rất kị gặp HÓA KỴ.

*      TUẦN chủ đúng, trúng; TRIỆT chủ sai, trật :

-       Chỉ có TUẦN thôi thì thấy đâu cũng đúng. Chỉ thấy TRIỆT thôi thì thấy đâu cũng sai.
-       TUẦN chủ đúng chớ gặp THIÊN KHÔNG và TRIỆT chủ sai vui mừng gặp sao này vì nó trừ đi, bỏ đi cái sai. TRIỆT KHÔNG là tốt.
-       Có cả TUẦN lẫn TRIỆT là biết phân biệt đâu đúng đâu sai. Nếu có thêm THIÊN KHÔNG (TAM KHÔNG) tức là đúng sai lẫn lộn.
-       Vậy vấn đề TUẦN TRIỆT đi với chính tinh nào, có phù hợp với nó hay không là điều tối quan trọng. Hay nhất là PHÁ QUÂN, THAM LANG gặp hay sao này được xem là tốt.
-       Và đúng sai cũng có tốt có xấu. Đúng như đúng người đúng tội, bị bắn trúng, bị đánh trúng…là những cái đúng dỡ. Và sai, trật cũng vậy.
+        TUẦN HÌNH là trọng tội, hay ngắm trúng…
+        TUẦN KIẾP là trọng nạn, trúng nạn.
+        TUẦN BỆNH PHÙ là trúng bệnh, đúng bệnh
+        Sai đi với lầm là TRIỆT đi với THẤT SÁT. Và TRIỆT tại thân dậu là quán triệt, tức không phạm sai lầm.

*      TUẦN chủ ngoan dễ bảo, TRIỆT chủ bỏ ngoài tai :

-       TUẦN chủ ngoan, là mẫu người chung thủy, trọn vẹn. TRIỆT chủ bỏ ngoài tai vì TRIỆT cho đó là sai nên triệt để chống đối khi gặp KÌNH.
-       Từ đó TUẦN TRIỆT giống như bộ KÌNH ĐÀ, TUẦN như ĐÀ và TRIỆT như KÌNH. Hai bộ này pha trộn vào nhau cho ra nhiều dạng tính tình khác nhau.
+        TUẦN KÌNH, TUẦN ĐÀ, TRIỆT KÌNH, TRIỆT ĐÀ
+        TUẦN KÌNH : Chủ ngoan nhưng cái gì không ưa là chống lại bằng thích
+        TUẦN ĐÀ : ngoan và dễ bảo
+        TRIỆT KÌNH : cứng đầu, bỏ ngoài tai tất, chống lại bằng được
+        TRIỆT ĐÀ : ngoan nhưng bỏ ngoài tai.
-       TUẦN TRIỆT phòng khắp lá số Tử Vi, lưu động theo năm tháng ngày giờ, khiến ta luôn có việc phải phòng bị, phải theo và phải chống.
-       Hai sao TỬ VI không thích hợp với TUẦN và càng không ưu TRIỆT vì chủ loại trừ, coi khinh, bí mật bị lộ…và THIÊN TƯỚNG không nên gặp TRIỆT (chủ nữa chừng, bỏ dỡ…) đóng tại THÂN là nữa chừng xuân, thân thể không vẹn toàn vì bị triệt.

*      TUẦN là giáo dục, TRIỆT là kiến thức, hiểu biết :
-       TUẦN chủ ngoan dễ tiếp thu nên từ dó TUẦN là ngôi sao giáo dục và đem sự hiểu biết của mình giáo dục kẻ khác.
+        TUẦN là Bộ Giáo Dục đi với ĐÀ LA là ngành hướng dẫn
+        TUẦN đi với ĐÀO HOA là chủ đào tạo, huấn luyện.
-       TRIỆT là kiến thức, sư hiểu biết, Đỉnh cao là sự quán triệt, là cái lưới sàng lọc nên TRIỆT được quyền loại trừ sau khi đã được trang bị kiến thức.
+        Quan trọng là đừng bị KỴ TRIỆT, là cách bị ghét bỏ, từ chối, loại trừ.
+        KỴ TUẦN khó tiếp thu, khó hòa nhập.

*      TUẦN thuộc nhóm sao ẩn, TRIỆT thuộc nhóm sao lộ :

-       Nhóm sao ẩn : TỬ VI, THIÊN PHỦ, THÁI ÂM, ĐÀ LA, TUẦN
-       Nhóm sao lộ : THIÊN LƯƠNG, THÁI DƯƠNG, KÌNH DƯƠNG, TRIỆT

*      TUẦN thuộc nhóm sao chủ quan trọng, TRIỆT thuộc nhóm sao chủ miễn trừ :

-       Nhóm sao có tầm quan trọng : KHÔI VIỆT, THÁI TUẾ, ĐẠI HAO, HỒNG LOAN, TUẦN
+        Tùy thuộc vào hung cát, hỉ tinh để luận đoán như đại quan, đại sự, rất to lớn về chức vụ…
+        Căn cứ vào nhóm sao chỉ tầm quan trọng để kết luận : SỰ VIỆC, SỰ CỐ, SỰ TÌNH, CHỨC VỤ…
-       TRIỆT khi tốt là ngoại lệ, miễn trừ, bất khả xâm phạm.

2.    ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG CỦA TUẦN VÀ TRIỆT :

Ø  TUẦN TRIỆT có ba điểm tương đồng quan trọng và hợp với THIÊN KHÔNG tạo thành cách TAM KHÔNG, tam vong đem lại những cái không may, không còn, cái vong cái mất từ đó chìm vào sự quên lãng của người đời.


*      TUẦN TRIỆT chủ mất, vong :


-       Mất người, mất của, mất địa vị, mất thanh danh… là điểm chung của TUẦN TRIỆT.
-       Từ vị trí chịu sự tác động của TUẦN TRIỆT nếu thấy THIÊN KHÔNG, rất kị gặp TỬ VI hay ÂM DƯƠNG dễ đưa đến mất mạng. Hạn chết thường gặp hay sao này lại có thêm Lưu TUẦN, Lưu TRIỆT. Nhất là lưu thại THÂN MỆNH.

*      TUẦN TRIỆT chủ trốn :

-       Khi đi với các sao di chuyển tạo ra cách lưu vong, đào tẩu, đi lánh, trốn tránh, tị nạn…
-       Các sao di chuyển như VŨ KHÚC, CỰ MÔN, THAM LANG, ĐÀO HOA, LƯU HÀ, THIÊN MÃ, TUẦN TRIỆT. Đi với nhiều sao thuộc nhóm này là “ đào thoát trốn chạy”. Lúc này TRIỆT LỘ là trên đường đào tẩu.

*      TUẦN TRIỆT chủ quên, sự quên lãng :

-       Quên như quên tình, quên nghĩa, quên tổ quốc, ông bà, cha mẹ… đến bỏ quên đồ vật…
-       Quên thiên về sao TRIỆT, đối với TUẦN không có nhưng khi có cả bộ TUẦN TRIỆT thì yếu tố quên mạnh hơn, là cái quên cái nhớ.
-       Khi hình thành cách TAM KHÔNG là nạn nhân của sự quên lãng, bỏ sót. Không nhớ là để quên ở đâu, thậm chí tên mình cũng không nhớ.
-       TRIỆT TƯỚNG là cách vong ân, vì quên không đền ơn đáp nghĩa.

Ø  TRONG CƠ THỂ :

-       TUẦN như “tuần hoán máu”, “tuần hoàn não” hấp thụ chất dinh dưỡng, hít vào…

-       TRIỆT như đào thải chất cặn bả, chất độc thải ra ngoài cơ thể, thở ra…Đóng tại THÂN thì bất lợi, đóng tại TẬT ÁCH thì hay nhưng chớ gặp THIÊN KHÔNG dù TRIỆT có kim cung cũng rắc rối về sự đào thải. “TUẦN TRIỆT đóng ở ách cung, tai nào cũng khỏi, nạn nào cũng qua”

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2016

KIẾP SÁT

1         KIP SÁT 


-       KIP SÁT chỉ đóng tại bốn cung tứ sinh, tam hợp có ĐÀO HOA, lục hội hay nhị hợp có THIÊN MÃ . Thuộc bộ ĐÀO HOA gọi chung là ĐÀO SÁT
-       KIP SÁT là một ngôi sao có khuynh hướng rất xấu. Rất kị gặp hung tinh, khi gặp các hung tinh sẽ kích thích các hung tinh này.

*      KIẾP SÁT khi tốt và khi xấu :

Ø  Khi tốt :

-       Là cướp được thành giặc, cướp được huy chương, cướp được học bổng, cướp được hợp đồng béo bở, cướp được mỏ quí của thiên nhiên.
-       Là đoạt danh hiệu vô địch, đoạt danh hiệu hoa khôi, đoạt được bằng cấp, đoạt ngôi cao quí... có những thanh danh rất là hay.
-       Khi tốt là đoạt được, cướp được những cái mà ai trong chúng ta cũng mơ ước, không ai dám nói là tên ăn cướp, tên chuyên cướp đoạt... mà tốn biết bao công sức, dằn vặt trong tâm trí... để trở thành con người tốt trong xã hội, có khi phải mua bằng tiền của, như câu thành ngữ “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”, có khi phải trả bằng xương máu khi đối đầu với cái ác.

Ø  Khi xấu :

-       Ta có nhiều dạng, tạm kể: Dạng thiệt thòi, dạng theo ác.
-       Dạng thiệt thòi :
+        Là người bị mất đi, bị cướp đi, bị đoạt đi. Như bị đoạt mất chức vô địch, bị cướp mất đi thành trì đồn bót mà ta có trách nhiêm bảo vệ, là bị cướp đi cái công việc mà ta có thể sẽ làm...
+        Hoặc không đoạt được bằng cấp, không đoạt được huy chương, không bắt được con tôm, con cá. Bị ai đó đoạt mất bao công lao mà ta làm ra. Như ki cóp mua chiếc xe bị ai đó đoạt mất. Là nạn nhân của KIẾP SÁT.
-       Dạng theo ác.
+        Là tên cướp của giết người, lục lâm, tạo nên ác nghiệp, gây nên nghiệp chướng, gieo rắc hoạ tai lên đầu người vô tội. Cướp luôn mạng sống, tiết trinh của con người. Sẵn sàng tạo ác nghiệp.
+        Trong trường hợp đó. KIẾP SÁT là tên cướp của giết người, không sai một chữ, không thừa một câu.
v  Dưới đây sẽ nói về những bộ sao quan trọng liên quan đến KIẾP SÁT, từ đó bạn nhận diện được bộ mặt của KIẾP SÁT,  kẻ cướp đoạt làm điều hay, kẻ cướp đoạt làm điều xấu.

*      Các dữ liệu luận đoán :

Ø  KIP SÁT từ xin đểu đến Cướp đoạt, đoạt được :

-       Xin đểu là KIẾP SÁT. Vì KIẾP SÁT không bao giờ hội họp với sao BẠCH HỔ (bày tỏ) hay HOA CÁI (xin xỏ) nhưng lại luôn lục hội hay nhị hợp với THIÊN MÃ (tay chân) nên còn là cách xin đểu
-       KIẾP SÁT là sao chủ cướp đoạt. Quan trọng là cướp cái gì? vì vậy cướp đoạt có tốt có xấu
+        Cướp tốt là : cướp được huy chương, học bổng…
+        Cướp xấu là : cướp đoạt đất đai, tài sản…
-       Cướp được là KIẾP SÁT, vui mừng là ĐÀO HOA. Vì thế bộ ĐÀO SÁT là bộ vui mừng vì đoạt được. Và muốn cướp được phải tạo ra, gây ra đó cũng là ĐÀO HOA.

Ø  Xét nét, bắt bẻ, ức hiếp, nghiệt ngã, đàn áp :

-       KIẾP SÁT không những kích thích mặt xấu của các chính tính nhất là THẤT SÁT và sát tinh ĐỊA KIẾP mà còn dễ kích động mặt ác tính của các hung tinh KÌNH ĐÀ, HỎA LINH.
-       Bốn sao KÌNH ĐÀ, HỎA LINH khi đứng riêng ra thì vô hại nhưng khi gặp KIẾP SÁT rất là hung.
-       KIẾP SÁT luôn luôn có ĐÀO HOA tam hợp là sao chủ tạo ra, gây ra. Vì vậy dễ tạo ra tai họa hơn là niềm vui đạt được, rõ ràng do tính chủ quan chứ không phải khách quan.
-       Do vậy, KIẾP SÁT còn chủ ức hiếp đàn áp, ép người đi với LƯU HÀ thành bộ hà hiếp hay còn gọi là bộ HÀ SÁT
+        Bộ HÀ SÁT kết hợp với bộ KHÔNG KIẾP càng làm cho bộ KHÔNG KIẾP thêm nguy hiểm, tính không ngờ rất là mạnh.
-        Đi với THIÊN HÌNH càng đáng sợ. Tạo thành bộ HÌNH SÁT
-       Đi với KÌNH ĐÀ làm cho KÌNH ĐÀ thêm hung gọi là bộ HAO SÁT.
-       Còn làm cho PHỤC BINH càng thêm xấu gọi là bộ PHỤC SÁT.

Ø  Nạn, kiếp nạn :

-       KIẾP SÁT đi với  hung tinh còn là nạn, kiếp nạn như nạn cờ bạc, nạn ma túy… là các tệ nạn xã hội…
-       Cần biết rằng bộ ĐÀO SÁT hội họp tại mệnh tạo ra một sự cướp đoạt tốt hoặc xấu có tính chủ quan. Nhưng có KIẾP SÁT xung chiếu tức mình là kẻ bị động. Yếu tố tạo ra do kẻ bên ngoài quyết.  
-       KIẾP SÁT là nạn, đi với các sao xấu khác là tệ nạn như tệ nạn tham nhũng, nạn trộm cắp, nạn cờ bạc, nạn hà hiếp. Đóng tại MỆNH dễ dính vào tệ nạn, đóng tại Thân là cái thân bị ức hiếp, hoặc bị nạn do bệnh tật càng xấu hơn, gặp ở hạn là phải đối phó với hoàn cảnh đó.
-       Đã có KIẾP SÁT tại MỆNH, kỵ nhất là gặp các sao trùng tên với nó là THẤT SÁT và ĐỊA KIẾP. Biến KÌNH ĐÀ LINH HỎA thành Sát tinh, biến KÌNH HÌNH thành hung khí, vũ khí, làm cho KỴ HÌNH thành phạm pháp khó tránh.

Ø  Giết và đoạt :

-       KIẾP SÁT khi đi với THẤT SÁT, ĐỊA KIẾP có thêm KÌNH, HÌNH mang ý nghĩa giết và đoạt như cách VŨ KÌNH KIẾP SÁT.
+        THẤT SÁT KIẾP SÁT + KÌNH, HÌNH
+        ĐỊA KIẾP KIẾP SÁT + KÌNH, HÌNH
-       Một khi KIẾP SÁT đi với HÌNH, KÌNH ĐÀ làm cho HÌNH, KÌNH ĐÀ trở nên độc, biến các sao này trở thành hunh khí.
-       KIẾP SÁT còn làm cho PHỤC BINH trở thành nguy hiểm khi thành bộ PHỤC KIẾP.

*      Các bộ sao quan trọng :

-       Trên lá số TỬ VI, KIẾP SÁT luôn kết hợp với LƯU HÀ thành bộ HÀ SÁT. Trừ một số tuổi của hai can canh và tân.
+         Đó là các tuổi canh của thân tí thìn.
+        Và các tuổi tân của tị dậu sửu.
-       Cần biết rằng trong 5 nhóm bộ sao hàng chi là : TUẾ HỔ PHÙ, TANG HƯ KHÁCH, PHƯỢNG MÃ KHỐC, ĐÀO HỒNG HỈ, CÔ QUẢ  thì KIẾP SÁT chỉ hội họp với hai nhóm ĐÀO HỒNG HỈ hoặc CÔ QUẢ.

Ø  Bộ HÀ SÁT (KIẾP SÁT LƯU HÀ) : Chủ hà hiếp. Bộ HÀ SÁT tại MỆNH thể hiện cá tính và tại HẠN thể hiện hoàn cảnh.
-       Chủ các điều sau đây :
+        Tốt là cướp đoạt được,vui mừng đoạt được, bất ngờ đoạt được. Nói chung là hà hiếp được kẻ khác mà thành công.
+        Xấu là bị kẻ khác hà hiếp, bị cướp đoạt mất một cách bất ngờ…từ chổ mất của đến cả mất người. Tùy theo hung tinh nhiều ít, có tầm quan trọng hay không?
+        Xấu nữa là dạng theo ác, gây tai họa cho người khác từ việc hà hiếp cho đến cướp của, giết người. Là tay chân đắc lực cho Hung Sát tinh.
+        Khi gặp bộ HÀ SÁT phải biết rằng ai là kẻ hà hiếp? ai hà hiếp ai?
+        Và tai họa do lỗi lầm. Trong đó LƯU HÀ chủ hà cớ vì sao và KIẾP SÁT là cái nạn, Tùy thuộc Hung Cát tinh để quyết đoán mức độ trầm trọng, từ nhẹ nhàng đến những chuyện khủng khiếp khác.
+        Trong vấn đề đi lại có các dạng như bị tai nạn trong di chuyển (tai nạn giao thông), bộ Hà Sát mang ý tai họa bất ngờ khi đi sát vào nhau, còn là dấu hiệu thủy tai bị nước đè (LƯU HÀ là con sông), bị ép buộc phải đi như lưu đày, phải ở lại, phải lưu lại như phải lưu ban, lưu giữ, quản thúc tại gia... Nói chung ưa đi thì bị ở, ưa ở thì bị đi. Có thế mới gọi là hà hiếp.
-       Bộ HÀ SÁT có Nội HÀ Ngoại KIẾP như tuổi nhâm tí, tại cung hợi ta có cách trên. Và tuổi quí mão, tạii cung thân ta có cách ngoại HÀ Nội KIẾP.
+        Sao KIẾP chủ nạn, Sao HÀ chủ lỗi, gây ra xung đột một bên gây lỗi một bên gây nạn. Một bên hà khắc một bên ức hiếp lại
+        Gặp thêm HỒNG LOAN (to mồm, màu đỏ) dễ dẫn đến đổ máu, tùy thuộc hung sát tinh nhiều hay ít…

®     Bộ HÀ SÁT đi với nhóm hàng chi :
      Bộ HÀ SÁT chỉ giao hội với hai bộ nhóm hàng chi là ĐÀO HỒNG HỈ và CÔ QUẢ.

-       Bộ HÀ SÁT đi với ĐÀO HỒNG HỈ :
+        Là vui mừng đoạt được cái gì đó nếu không bị phá cách.
-       Bộ HÀ SÁT đi với bộ CÔ QUẢ :
+        Bộ CÔ QUẢ chủ cố ý, cố tình. Đi với bộ CÔ QUẢ thì bộ HÀ SÁT chủ gây lỗi do cố ý, cố tình, thủ đoạn.
+        Cần chú ý đến các sao lỗi lầm, sai trái khi nó tụ tập tại một nơi (THẤT SÁT, LƯU HÀ, CÔ THẦN, PHI LIÊM) Nếu có thêm KỴ HÌNH dễ vi phạm pháp luật.
+        Nếu đi với cát tinh là vui mừng đoạt được kết quả bất ngờ.
+        Cá biệt có khi giao hội cả HÀ SÁT + ĐÀO HỒNG HỈ + CÔ QUẢ. Không bị phá cách bộ sao này vẫn mang ý tốt vui mừng bất ngờ đạt kết quả tốt ít ai có. Càng nhiều sao càng dễ bị phá cách.

®     Bộ HÀ SÁT đi với nhóm hàng can :
      Bộ HÀ SÁT luôn giao hội với một trong bốn nhóm hàng can sau : TỒN TƯỚNG PHÙ, PHI PHỤC THANH, ĐẠI LỰC TẤU, TIỂU PHỦ HỈ.

-       Bộ HÀ SÁT đi với LỘC TỒN :
+        Đây là bộ sao gặp ở các tuổi  Kỷ Mậu Nhâm.
+        Đi với LỘC TỒN vô hại, chẳng qua là vui mừng đoạt được (kiếm được) tiền của và từ đó  có tiền của để dành dụm.
+        Bộ HÀ SÁT TỒN phù hợp với nhiều chính tinh kỵ nhất là nhóm SÁT PHÁ THAM, vì có cách ‘Cát xứ tàng hung’ lại thêm cách lưỡng Sát, có LƯU HÀ lại thêm THẤT SÁT tính bất ngờ càng thêm cao. PHÁ QUÂN thấy bộ sao này xung càng mau tan rã. Bộ sao này hoàn toàn phù hợp với nhóm TỬ VŨ LIÊM và PHỦ TƯỚNG.
+        Kỵ nhất là PHÁ QUÂN, nhì là CỰ MÔN.

-       Bộ HÀ SÁT đi với PHỤC BINH TƯỚNG QUÂN :

+        Gặp trong các tuổi đinh, kỷ, quý
+        Cần phân biệt BINH TƯỚNG HÀ SÁT và TƯỚNG BINH HÀ SÁT
+        Vị trí TƯỚNG QUÂN bao giờ cũng hay hơn PHỤC BINH vì PHỤC BINH phục vụ cho TƯỚNG QUÂN ở bên ngoài
+        PHỤC BINH chủ ẩn núp, khi đi với KIẾP SÁT nó có khuynh hướng không tốt. Vì thế kị gặp thêm Chính tinh lạc hãm cũng như Hung tinh làm cho bộ sao này trở thành xấu. Bộ PHỤC SÁT là bộ sao xấu lại thêm bất ngờ của LƯU HÀ lại càng xấu thêm.
+        Bộ PHỤC SÁT rất kỵ SÁT PHÁ THAM dù có hay không có KIẾP SÁT cũng vậy, có KIẾP SÁT họa càng lớn. Hai sao THẤT SÁT, PHÁ QUÂN hoàn bất lợi (PHÁ BINH không trước thì sau “ tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi” và THẤT SÁT BINH là dễ mất quân mất tướng, “tướng sát quân”, trong vấn đề tình cảm cũng vậy.) chỉ có THAM LANG họa may chỉ sống chung nổi với PHỤC BINH.
+        Bộ PHỤC SÁT lưu động tại cung ĐIỀN TRẠCH hay nhòm ngó vào cung đó coi như trộm đã nhập gia dễ mất của. Nhòm ngó cung TẬT ÁCH coi như có kẻ đang để ý ta, dễ bất đắc kỳ tử.
+        Bộ PHỤC SÁT khi gặp CỰ MÔN thì không xấu vì CỰ MÔN hợp với THANH LONG (PHI PHỤC THANH)
+        Bộ PHỤC SÁT gặp THIÊN ĐỒNG thì lại tốt, vì THIÊN ĐỒNG hiền hòa, thu phục đám binh tôm tướng cá này.
+        Cho nên một lá số TỬ VI hay, là có cách PHÁ QUÂN ngộ HAO KÌNH ĐÀ và tất dễ có cách ĐỒNG ngộ BINH. Có nghĩa là sau khi PHÁ HAO đánh đấm hao tổn, thắng thua chưa cần biết, qua hạn khác ngộ Đồng Binh, tập trung quân lại chơi tiếp. Cho nên PHÁ KÌNH là cách chống phá rất mạnh, chống phá cái gì, chống phá ai... do các sao KỴ HÌNH, tam Hóa căn cứ vào đó đễ luận.
+        Nhưng khi PHÁ QUÂN ngộ BINH TƯỚNG, tất THIÊN ĐỒNG dễ ngộ Hao Kình Đà và CỰ MÔN cũng vậy, cái đám đàn em đâm ra phản kháng lại mình, sau khi đã bỏ quân bỏ tướng mà chạy.

-       Bộ HÀ SÁT đi với BỆNH PHÙ :
+        Dễ gặp ở các tuổi bính, mậu kể cả các tuổi đinh, kỷ quý
+        BỆNH PHÙ vốn là ngôi sao làm hại, lại hội họp với HÀ SÁT thành bộ sao nguy hiểm, phò trợ cho cái ác, cái xấu hà hiếp kẻ khác.
+        Đây là bộ sao rất xấu, gặp ở hạn là héo hon vì nó, phe cánh nó nhiều được sự hổ trợ tối đa.
+        Hầu như các chính tinh đều dễ bị sự phụ giúp tai hại của BỆNH PHÙ, thà rằng bị sao Đà cản trở, sao Kình chống đối, sao Kỵ cấm đoán còn hay hơn là bộ BỆNH PHÙ  HÀ SÁT.
+        Tuy nhiên trong 14 Chính tinh, chỉ có THIÊN LƯƠNG gặp bộ HÀ SÁT BỆNH PHÙ  là hợp cách, kẻ xấu cũng ủng hộ mình Đau ốm cũng gặp thầy gặp thuốc.
§  Chú ý : Nếu ta có một ngôi TỬ VI ngon lành tại MỆNH có thêm chỉ BỆNH PHÙ thôi, ai đó mời ta làm cố vấn, giám đốc... cũng không nên làm. Coi chừng ta là hình nhân thế mạng. Phù trong trường hợp này là phồng mang trợn mắt, để thanh minh.

-       Bộ HÀ SÁT đi với THANH LONG :

+        Gặp trong tuổi Đinh. Về tai nạn dễ gặp các loài bò sát, cá dữ cắn.
+        Về tai họa là tiếng nói của kẻ hà hiếp. Tiếng nói đó có thể bị và được. Được có khi là bị được. Bị được tức là anh hãy nói theo ý của tôi tức là ép buộc phải nói. Cho nên nhóm SÁT PHÁ THAM đi với sao này cũng chẳng hay, cho dù có HÓA QUYỀN cũng không phải là hay.
+        Không có HÓA QUYỀN thì cũng thuộc dạng “nói dzậy chứ không phải dzậy”. Không trước thì sau cũng thanh minh thanh nga rằng, vì thời thế thế thời phải nói, vì miếng cơm manh áo, vì sao và vì sao... tui nói những điều trái với ý muốn của tui. Cho nên có những tuyên bố gượng ép buồn cười còn tệ hơn là thầm thì nói nhỏ.
+        Vì thế bộ sao này đưa ra 2 trường hợp, một là nói tào lao, hai là tiếng nói của kẻ đang bị áp bức, kẻ thất vọng. Trường hợp nào cũng khổ như nhau.
+        Chính tinh hợp nhất với bộ HÀ SÁT THANH LONG là CỰ MÔN và THÁI ÂM, THIÊN PHỦ. (CỰ HÀ SÁT THANH, THÁI ÂM HÀ SÁT THANH, PHỦ HÀ SÁT THANH).


-       Bộ HÀ SÁT đi với PHI LIÊM :

+        Gặp ở các tuổi Kỷ Mậu Nhâm.
+        PHI LIÊM là ngôi sao có khuynh hướng sai trái, đi với bộ sao này tính sai trái ấy còn cao hơn, nếu đi với Sát Phá trở thành xu hướng xấu.
+        Những tuyên bố láo lếu nằm trong bộ sao này, nó chủ sự phỉ báng kẻ khác. Do bộ Hà Sát thường có bộ Hồng Đào đi theo. Cho nên có những cuộc chiến tranh nổ ra trong gia đình, trong gia tộc, sắc tộc, tôn giáo, quốc gia vì những lời nói phỉ báng, trong báo chí hay dùng từ lời tuyên bố của ... dễ biến thành lời tuyên chiến.
+        Đi với chính tinh nào cũng chẳng hay ho. Kỵ nhất là PHÁ QUÂN nhì là CỰ MÔN. Các chính tinh còn lại đều tạm kị, có thể tạm gọi là dễ chịu khi đi với THIÊN ĐỒNG.
+        Tất nhiên rất kỵ bộ KỴ HÌNH chủ phạm điều cấm kỵ làm tình huống xấu thêm, tội càng thêm lớn.
+        Bộ sao này còn kỵ gặp bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM hình thành cách Lưỡng Liêm. Gây ra xung đột bằng vũ trang. Chiến tranh là đây.
+        Bộ sao này không nên gặp tại MỆNH, gặp tại hạn cũng đã khổ rồi.
®     Đi vào nghiên cứu sâu ta sẽ gặp bộ Hà Hiếp này đi với chính tinh nào để quyết đoán, cần phân biệt rõ tại MỆNH (cá tính) hay Hạn (hoàn cảnh).

-       Bộ HÀ SÁT đi với nhóm SÁT PHÁ THAM :
+        Đây là bộ sao xấu kị gặp tại MỆNH, có thể gặp hay thấy ở THIÊN DI và ở HẠN
+        Từ bộ sao này tìm ra những kẻ tham nhũng, kẻ hà hiếp, đàn áp. Có thể gặp ở hạn nói lên hoàn cảnh lâm nạn.

Ø  Bộ HAO SÁT :

            Khi KIẾP SÁT giao hội với hai nhóm ĐẠI LỰC TẤU và TIỂU PHỦ HỈ dù có hai không LƯU HÀ hội họp (bộ HÀ SÁT) thì vẫn được gọi là bộ HAO SÁT.
-       Dễ gặp trong các Can Giáp, Ất, Canh, Tân.
-       SONG HAO bao giờ cũng hội họp với KÌNH ĐÀ làm cho KÌNH ĐÀ trở thành hung.
+        Với KÌNH mang ý kình chống để cướp đoạt, với Đà là lôi kéo vào sự cướp đoạt, Kình Đà trở thành hung khí  vật sắc nhọn để cướp đoạt.
+        Đặc biệt ở Tị cung rất kỵ bộ HAO SÁT ngộ THIÊN LƯƠNG, dễ bị đao thương, tại đó tất phải gặp thêm sao PHÁ TOÁI.
+        Đà La tính nhu nhược, mềm yếu hơn Kình Dương và còn chịu nhiều thua thiệt. Do vậy tùy tình huống mà luận ĐÀ HAO có khi là kẻ bị chèn ép, bị đè, bị đì, kẻ chịu thiệt...
+        Từ vị trí sao Hao ta có Hao Kình hoặc Hao Đà, từ vị trí Tấu Thư (ĐẠI LỰC TẤU) hay Hỉ Thần (TIỂU PHỦ HỈ) ta có Kình Đà hội họp, tùy tuổi  ta lại có nội Kinh ngoại Đà và ngược lại nội Đà ngoại Kình. Thấy cả 2 sao hay hơn 1 sao, cương nhu tùy lúc... Kình quá thiên về cương, Đà quá thiên về nhu, đó là lý thuyết chung, nhưng quan trọng là tìm xem có tăng thêm Hung tính cho Đà không. Đó là các sao Hỏa Linh Hình Kiếp.
-       Có 2 dạng căn bản HAO SÁT KÌNH và HAO SÁT ĐÀ.
+        Trong mỗi dạng ta lại có TiỂU HAO hay ĐẠI HAO.
+        Đại bao giờ cũng nghiêm trọng hơn nhiều, tốt càng thêm tốt, xấu càng thêm xấu.
-       Bộ KÌNH SÁT tại MỆNH còn bất lợi cho học hành thi cử, vì cứ nghĩ đến tranh giành và cướp đoạt cái gì đó.
+        Bộ sao này đi với VŨ KHÚC là ngôi sao ưa dùng đến bạo lực, rất dễ gặp thêm LỰC SỸ gã có sức, trở thành kẻ bạo lực.
+        Nếu thấy THẤT SÁT tính soán đoạt càng mạnh, lúc này có đến 2 sao Sát, THẤT SÁT coi như có đàn em nhưng xung đột không bền. Nội bộ lủng củng đấu đá nhau là Kình Đà, hậu trường bất ổn, THẤT SÁT và KIẾP SÁT ai chịu thua ai.
+        Bộ này đi với Hồng có SÁT PHÁ còn là nạn cờ bạc.
-       Bộ Hao Sát nếu thấy THIÊN TƯỚNG cũng kị vì THIÊN TƯỚNG kị gặp KÌNH DƯƠNG dễ tương tranh, lại có KIẾP SÁT dễ tương tranh bằng hung khí. Bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM nói chung kỵ gặp.
-       Với CỰ MÔN tạo thành cách phản kháng, nhất là có KÌNH hợp, phản kháng sự hà khắc của bộ Hà Sát. Nói theo ngôn ngữ bây giờ là những nhà đấu tranh, đòi hỏi nhân quyền... căn cứ vào TỬ VI gọi là phản kháng, thành công không nói làm gì, thất bại dễ một là cự ly (chạy) hai là bị cách ly (giam).
-       Nếu không thấy các chính tinh vừa kể thì chẳng xấu là bao nếu như không gặp các trường hợp sau đây.
+        KHÔNG KIẾP vì hình thành bộ Lưỡng Kiếp. ĐỊA KIẾP tên Lục lâm, thảo khấu có một lâu la rất tích cực là KIẾP SÁT, THIÊN KHÔNG biến thành không tặc, nhưng nếu không có chiếc máy bay  (thì sao?) thì không ngờ (Không) biến thành họa (KIẾP),  và còn hình thành bộ KÌNH KIẾP tai họa mọc lên, đương nhiên là có ĐÀO HOA, tạo tai họa chứ không phải sự vui mừng, hay nói cách khác từ vui mừng không ngờ  tạo ra tai họa. 
+        THIÊN HÌNH dễ hình thành bộ KÌNH HÌNH, kình chống lại thêm bắt bẻ, nó đứng thế đối kháng còn sinh chuyện, thế là từ Kình biến thành mũi dao nhọn, nếu có Kỵ trở thành vi phạm pháp luật. Nếu có KHÔI VIỆT tội càng thêm to, quý nhân là ông chánh án ở tòa.
+        Nếu có Hỏa Linh (bộ sao tinh thần, nhưng trong trường hợp này là thần kinh sẽ có vấn đề) dễ nổi khùng đấm đá bậy bạ.
-       Bộ Hao Sát không nên gặp ở MỆNH, nếu có kỵ gặp gặp thêm Hung, Kỵ Hình tinh. Gặp ở vận hạn nói lên nổi khó khăn của mình.